Tác giả: Nguyễn Thị Long AnĐã ba ngày
qua, giấc ngủ trái giờ chưa quen, đêm thức trắng ngày ngủ triền miên cho
tới lúc mặt trời xuống tận chân trời, tôi đang tập lần cho mình có được
giấc ngủ bình thường như mọi người ở đây, vậy mà đêm nay cũng tỉnh giấc
giữa lúc cả nhà đang say sưa trong hơi thở.
Ánh sáng mù mờ tỏa
ra từ ngọn đèn nhỏ áp sát tường soi mơ hồ bốn bên căn phòng gần đầy đủ
tiện nghi của người chú dành cho đứa cháu thân thương từ phương xa mới
về. Nằm yên trên giường rộng, mắt mở lớn dòm trần nhà xuyên qua nóc mùng
lưới, bốn cánh quạt xoay vù vù hòa với tiếng muỗi kêu vo ve xa xa trong
hóc kẹt, thêm những tiếng động đâu đó thỉnh thoảng dội lại. Đồng hồ
dưới nhà gỏ lên ba lần ngân dài trong khoảng không gian im vắng, thầm
nghĩ có thể đêm mai mình sẽ tròn giấc hơn. Nhắm mắt cố gắng ngủ tiếp,
nhưng thần trí tỉnh táo lạ lùng, tôi ngồi bật dậy nhẹ nhàng bước xuống
khỏi giường, mở cửa bước ra ngoài.
Tựa người vào lan can của bao
lơn, một chút hơi sương mát mát dịu dàng cuối đêm phả vào mặt vào cổ.
Vòm trời trong đen rải rác mấy ngôi sao nhỏ lạc lõng, nhấp nháy từng tia
sáng bơ vợ Ngọn gió nhẹ từ một hướng xa xôi nào thổi tới, lay động ngọn
cây, đùa mớ tóc phủ xuống che gần hết nửa mặt, mặc nhiên cảm nhận chút
dễ chịu len nhẹ trong hồn và không khí oi nồng đang lắng xuống của đêm
hè về sáng. Vài chiếc lá khô của một ngọn cây sát góc nhà, tách mình rời
cành rơi xuyên qua từng chòm lá xanh, bay vèo xuống mặt hẽm tối đen.
Mùa
nắng ở đây nóng bức mường tượng cái nóng ở xứ "cao bồi" của nước Mỹ,
nơi chốn tôi lớn lên và đã hấp thụ những thứ văn minh vật chất hơn hai
mươi năm.
Trên lầu cao, dòm bao quát khoảng không gian trước
mắt, phai tàn một vài hình ảnh quen thuộc ngày xưa. Những nóc nhà chen
chúc dầy đặc, cái thấp cái cao, nóc xam xám, đen đen mập mờ giữa sương
mù, không thể nhận biết nơi nào, vùng nào của thành phố với sự đổi thaỵ
Xa xa từ khung cửa nhỏ nào đó gần bên mái, tỏa ra những vệt sáng lợt
lạt, dường như có mùi khói bốc từ củi lửa trong lò và mùi mốc meo còn
lại của thời gian trước. Mùi hăng hăng trong không khí len lén đi vào
cảm giác ngất ngưởng vờn lên thưở xa xưa và khuấy động nỗi cô đơn trong
tâm thức như thúc giục nhớ tới một bóng đen lớn úp chụp xuống đời mình,
lao đao ngập hồn với sự côi cút từ tuổi ấu thơ...
"... Một tỉnh
lỵ xa xôi, miền cao nguyên đất đỏ bụi mù. Ngoài đường rần rần người di
tản, trong nhà mẹ ngồi chóng tay lên bàn bất động, dường như đang suy
nghĩ điều gì? Tiếng súng mỗi lúc một nhiều và gần thêm. Ba từ đơn vị trở
về theo sau là chú lính cận vệ quen thuộc. Mẹ vội vàng vào phòng trong,
ôm ra bọc quần áo và phong thơ trao cho chú lính, hối tôi thay áo quần
theo chú lính di tản trước. Tôi vùng vằn, bật khóc, không muốn đi, nắm
áo mẹ trì kéo. Mẹ gỡ tay rồi dỗ dành giọng nghẹn ngào giữa hai hàng nước
mắt:
- Con theo chú Bổn về Sàigòn ở với bác Hai trước, cho ba mẹ yên
lòng, vài tuần nữa ba mẹ sẽ về sau, không có con ba mẹ dễ dàng lo liệu.
Từ
phòng thay áo trở ra chưa kịp nói lời nào, ba đã vội vàng nắm tay tôi
lôi đi ra ngõ như trốn chạy, gấp rút đẫy lên chiếc xe "Jeep" đậu sẵn,
thúc dục chú lính lái xe ra phi trường. Ấm ức trong lòng không giải bài
được, chưa từ giả mẹ, chưa được mẹ Ôm vào lòng như những bận trước phải
đi xạ Nước mắt đầy tròng, quay mặt phía sau, dòm qua lớp bụi mù dáng mẹ
lung linh bên khung cửa đứng ngóng theo. Hình ảnh mẹ khuất sau khúc
quanh, cụm thông già che mất mấy dãy nhà tôn trắng, không còn thấy mẹ
tôi đành xoay mình lại phía trước ngó con đường đá đỏ ngoằn ngoèo, có
những chiếc xe chạy hối hả vô duyên quậy lên những vần bụi đỏ tấp vào
đầu tóc áo quần và luồn trong hơi thở. Không khí trong xe im lặng và cảm
thấy có chuyện quan trọng, nhưng trong lòng còn tư tưởng đến sự trở về
muốn cầu cứu cha nhưng khuôn mặt trang nghiêm rắn rỏi pha chút xót xa ẩn
kín trong đôi mắt có màng nước mong mỏng quanh tròng, tôi đành nuốt
xuống sự mong muốn, cúi đầu khóc thầm với sự chia ly vội vã.
Chú Bổn
ẫm tôi chạy nhanh lên thang của chiếc vận tải cơ C 130. Không còn chỗ
ngồi tôi phải ngồi trên mình chú Bổn. Tiếng nổ của máy ầm ầm, phi cơ rời
phi trường chạy một đường dài rồi cất lên cao đảo vòng trở lại, tôi
chòm qua khung cửa nhỏ dáng cha đứng yên lặng nhỏ xíu, và mờ lần dưới
sân bay cạnh bên rừng cây dầy đặc.
Ở gia đình bác, đều đặn mỗi ngày
cắp sách tới trường, siêng năng, cố gắng học hành hầu quên lảng nỗi buồn
đơn độc. Sự mong đợi mẹ cha, sự ước vọng sum họp cũng lần trôi theo
ngày tháng mõi mòn, mường tượng sự mong ngóng đó ngàn năm sẽ không hề
lai vãng, và thứ hạnh phúc nhỏ nhoi bên cha mẹ bình thường hạn hẹp khẩn
cầu không hề thấy tới. Một ngày về học, bỗng nhiên bác Hai gái ôm tôi
vào lòng nói trong tiếng khóc: "Thảo ơi! Ba mẹ con chết hết rồi". Tôi
ngơ ngác, không biết nổi, không đo lường được sự chết chóc ra sao, đứng
im lặng với hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Cả nhà buồn bã, thương cảm
và xót xa mỗi khi thấy tôi đứng thơ thẩn trước sân nhà, mặt đăm chiêu
nghiêng về hướng có những tiếng súng nổ ì ầm xa xôi. Lần lần tôi hiểu và
biết được rõ ràng hơn ba mẹ tôi không còn trên thế gian, hai người đã
thành cát bụi, linh hồn bay về đất khác do lửa hồng, súng đạn của chiến
tranh. Vĩnh viễn không còn thấy lại gặp lại hai người thân yêu. Hình ảnh
cuối cùng gờn gợn lên trong trí, căn nhà nơi trại gia binh và sân bay
bên cánh rừng đầy dẫy người di tản. Trong gia đình bác mọi người thương
yêu chiều chuộng tôi hơn, nhứt là bác Hai lo lắng và coi tôi như con
ruột để bù đắp nỗi bất hạnh của đứa cháu còn quá nhỏ...
Nỗi đau
buồn tang tóc chưa nguôi, tai họa dữ dội khác trút xuống thành phố và
nguyên cả miền Nam mà mọi người đang sống êm đềm hạnh phúc. Hàng loạt
súng nổ rất gần giữa đêm khuya, xa hơn đại bác rền rĩ, càng lâu càng
nghe dữ dội bốn bề. Từ ngoại ô, từ nơi nào đó đạn pháo kích bay vút lướt
trên những nóc nhà, đổ xuống vùng nầy, góc kia, lửa đỏ lan tràn. Một
lần nữa phải rời bỏ chút kỷ niệm ngắn ngủi nơi học đường nơi thành phố
ngựa xe, cùng gia đình bác di tản. Lại phải ra đi lần nữa, sang một đất
nước xa lạ, không biết sẽ tới đâu, ra sao những ngày kế tiếp... "
Mọi
việc đã qua rồi rất lâu, hình ảnh tan tác đã bay vèo mất hút và bây giờ
ở đây giữa lòng đất cũ dường như tôi còn nghe mơ hồ, tiếng xe chạy rộn
ràng hòa với tiếng đạn nổ. Những đống binh phục hiển hiện bên lề đường,
ngập đầy các góc phố, hình dáng những người lính chỉ còn chiếc quần đùi
trên người trốn chạy mãi mãi còn ấn sâu trong trí nhớ.
Đứng bên hành
lang một lúc chân đã bắt đầu mỏi, tôi đi lần về phía sân thượng. Ngồi
lên băng đá đưa mắt lướt qua bốn bề mênh mong. Từng vũng tối, sáng kế
tiếp xen kẽ rộng lớn, dòm sâu vào những nơi không có ánh sáng đó, tìm
kiếm nguyên do, nhưng sự tìm tòi không lâu, vụt hiểu ra những vùng tối
đen là những nơi bị "cúp điện".
Đầu hẽm bây giờ đã có bóng người, chị
bán phở đang nhóm bếp hâm nồi nước lèo. Ánh lửa bập bùng soi rọi những
chiếc ghế đẩu kê chung quanh cái bàn cây cũ kỷ gá nhờ vào bức tường phía
trên của căn nhà họ đang nấu sữa đậu nành, tiếng rang đậu rào rào vang
động như tiếng mưa rơi trên mái tôn và những luồng khói trong lò bay tỏa
khắp các khu nhà lân cận. Lần lượt những món hàng ăn sáng khác, được
mang ra bày biện mọi chỗ ở đầu hẽm. Mọi người ở đất nước nầy sanh phương
bằng những cách buôn bán nhỏ nhoi, nồi chè, nồi cháo, tràn bánh hay
những nghề lao động - gánh gồng, đạp xe ba bánh, phu xích lô - để tìm
cái sống qua ngày.
Chân trời phương đông hừng lên dãy sáng dài. Ngôi
sao hôm, sừng sững sáng rực phía trên cao. Uể oải, trở vào phòng lên
giường, giấc ngủ chập chờn trở lại giữa sự huyên náo của đầu ngày. Bỗng
một thứ âm thanh từ xa văng vẳng xoáy vào đầu óc, lối gỏ nhịp dòn tan
sành sỏi của hai thanh tre nhỏ "lắc cắc cụp, lắc cắc cụp, cắc cụp, cắc
cụp" mỗi lúc một gần thêm, tiếng rao mì mà lâu lắm tôi chưa hề được nghe
ở phía bên kia trời.
* * * * *
Chiếc "Honda dame" hai bánh nổ dòn trước nhà, tôi leo lên ngồi "chàng
hảng" phía sau yên xe của cô em họ. Hằng cho xe lao ra khỏi hẽm, chạy
chầm chậm sát lề ngược chiều, chờ khoảng trống để đâm thẳng qua phía
chiều bên kia.
Lao lách giữa rừng xe gắn máy, san sát, kè nhau trong
gang tấc. Một chiếc gắn máy từ sau ủi tới chặn trước đầu xe rồi lòn qua
bên trái, tôi hết hồn bấu chặt hai tay vào phía trước bụng cô em. Hằng
vẫn băng băng phóng tới, được một đoạn ngắn, hai tay tôi càng bấu chặt
hơn vào người Hằng để kềm thân thể mình vững vàng. Nhiều tiếng máy nổ
khác nhau ồn ào vang rền bên tai. Lần đầu tiên ngồi xe hai bánh chạy vun
vút, lách qua bên nầy, lượn qua bên kia giữa khoảng đường nhiều thứ xe,
không trật tự, tôi nín thở, muốn biểu Hằng quay về, nhưng chút tự ái
của người ở từ một nước văn minh tột cùng bắt tôi im lặng. Mặt đường có
nhiều lỗ bể lớn, bánh xe lọt xuống nhảy lên nhiều bận. Từ nãy giờ thế
ngồi của tôi bị chệch một bên, chưa biết làm sao sửa lại, thì lại lọt
xuống và hất lên với lỗ đường quái ác khác. Tôi chưa dám nhít người,
chưa dám động đậy khi bánh xe còn lăn tròn trên mặt lộ và còn hàng hàng
lớp lớp những chiếc xe honda xấn tới vây quanh.
Nắng hè gay gắt
chiếu trên tóc, trên vai, trên cổ. Sự nóng rát bắt đầu, mồ hôi tuôn từng
dòng từ mặt xuống cổ. Nhiều đoạn đường đã chạy qua, dường như đã quen
với những chiếc xe song song sát bên mình và sự hỗn độn trên những con
đường bể nát. Cơn lốc hãi sợ dịu xuống, bây giờ mới cảm thấy đôi mắt cay
cay mù mờ bởi mớ bụi dấy lên, nhè nhẹ rút một tay lên dụi mắt, một lằn
nước đen đen quét dài trên mu bàn taỵ Dòm sang chiều đối diện, có những
bà, những cô che mặt như mang mặt nạ sát thủ, che luôn hai tay bằng
chiếc găng dài từ bàn tay đến khuỷu, nghĩ mình chưa có chút kinh nghiệm
nào về sự di chuyển bằng xe Honda ở đây.
Hằng đã đưa tôi di hành khắp
nẽo trong thành phố, từ những nơi đông đúc nhứt tới những chỗ hẻo lánh
ngoại ô . Khuôn mặt đời quen thuộc bây giờ biến thành kẻ lạ. Ngồi trên
xe không nhận định được phương hướng, tôi mặc kệ Hằng muốn mang tôi đến
nơi nào cũng được. Những dãy nhà cũ đã phá bỏ, xây lên những cái mới, có
lầu cao, khang trang xinh xắn, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy bất
ổn, cứ ngỡ mình đang đi đến nơi chốn nào, một đất nước khác. Nhà cửa,
hàng quán, san sát choáng ngập, thay thế những hàng cây cao bóng mát
ngày xưa nhiều lần tôi đi bộ dọc dài từ nhà bác đến nhà bạn, thường khi
núp nắng hoặc ẩn trốn dưới đám mưa mây. Tôi không còn nhận ra một quen
biết nào trong tâm tưởng sau mấy tiếng đồng hồ quan sát thành phố.
Hai
bánh xe của Hằng vẫn lăn đều trên mặt đường, tôi buâng khuâng tự hỏi,
mình đi quan sát gì, đi tìm gì trên những chỗ đổi dời, ngày trở về với
cuộc hành trình vô bổ mà tốc độ từ đầu dốc của hiện tại nầy từ từ tuột
thẳng xuống đáy vực trong tương lai. Những biến cố của đời đã tạo nên,
không can đảm đương đầu đã băng mình chạy đi trước những tiếng kêu cứu
mất còn vừa dấy lên trên mảnh đất an bình. Và bây giờ trở về như con thú
bị thương kiệt sức oằn mình phủ phục trước thợ săn... Đi ngang qua ngôi
trường mang tên một nhà bác học, cũng nhà cửa, hàng quán che khuất,
ngôi trường lùi vào phía trong ẩn dật, khiêm tốn cũng như tên trường đã
thay vào một tên khác. Tôi quay đầu tìm kiếm cổng ra vào những không
thấy chỉ thấy trên chóp cao mái ngói rêu phong và chút tường vôi loang
lở. Đột nhiên nhớ da diết những ngày theo bác với các anh các chị trên
chiếc xe "Jeep" mỗi ngày đưa lũ chúng tôi đi học. Không phải một ngôi
trường học nầy mà tất cả các thứ khác cũng đã đổi thaỵ Lạ một điều,
những khách sạn, những căn nhà mới rất nhiều, nhưng chưa hề thấy một
ngôi trường mới nào được dựng thêm. Tôi thở dài bởi trong lòng ngao ngán
với nhiều đổi thay vô dụng. Chớp mắt lắc mạnh đầu để xua đi những ám
ảnh làm đôi mắt cay xè rưng rưng muốn khóc. Liếc thấy những người qua
lại chăm chăm dòm mình biết họ tò mò ngắm nghía, có thể vì bộ quần áo
ngoại quốc và dáng vóc khác lạ.
Nắng chiều vàng hoe nhảy nhót trên
những nóc nhà cao, chiếu xuống những con đường luôn luôn không ngớt có
hàng hàng lớp lớp xe đạp, xe Honda, vội vã hấp tấp ngược xuôi dưới sức
nóng thiêu đốt của mặt trời hè.. Tôi đã mệt nhoài và đói bụng, mặc kệ
không còn muốn dòm ngó nữa, tất cả mọi chỗ gần như giống nhau dưới đôi
mắt đầy bụi đường lẫn với mồ hôi chảy đầy mặt mũi.
* * * * *
Chú, thím và các em đã ùa xuống nước. Tôi ngồi trên bãi dòm ra khơi,
nghe bọt sóng tan lao xao giữa vòm trời mênh mong. Những tàu, ghe đánh
cá nhấp nhô ngoài xa, khơi dậy trong tôi ngày nào xa thật xa trên chiếc
tàu đầy người, trong đêm có vô số vì sao chiếu trên vùng trời đen nhánh.
Những nỗi lo sợ, băn khoăn, ray rức về sự sống và cái chết của hàng
ngàn người loay hoay như mấy con dã tràng trên bãi cát trắng phau. Tiếng
cầu kinh rì rầm vọng âm vào tiếng sóng vỗ quanh thành tàu... Mường
tượng như có những xác người bị đắm tàu trôi dạt trong lòng biển ngày
xưa, những ngọn sóng lớn bạc đầu trắng xóa giận dữ thi nhau nhận chìm
những xác người, hiện đang cuồn cuộn lướt vào bờ vỗ ầm ì giữa ghềnh đá.
Bây giờ, một mình ngơ ngáo ngồi đây dòm quanh quất chạnh lòng nhớ ba mẹ
tôi vô vàn, đành bó tay không thể tìm đâu ra hai mảnh hài cốt chôn vùi
thất lạc trên vùng đất cao nguyên.
Thoạt thấy hình dáng ốm nhom của
người chú lững thững bước đi xiêu vẹo trên mặt cát. Chú tuy ở thành phố,
làm việc đầu tắt mặt tối mới nuôi nổi mấy đứa con và có được ngôi nhà
kha khá như vậy thì những cuộc vui chơi những hưởng thụ chung quanh chú
đành không nghĩ tới. Tự biết cuộc sống ở đây thật khắc khổ, thật vất vả
mới tìm ra được đồng tiền. Lòng thầm ray rức, muốn giúp đở mọi người
thân nhưng ngoài tầm tay với, ngoài sức của mình. Nghe mấy đứa em nói
với nhau "Lần đầu tiên mới biết biển". Thật tội nghiệp, từ nhà tới bờ
biển không xa mấy mà suốt cuộc đời, nếu không có dịp trở về của tôi thì
có thể cả nhà chú và các em không hề đặt chân tới nơi nầy.
Vòm trời
đang trong sáng bỗng tối sầm. Mây đen từ phía cuối trời kéo lên. Gió bắt
đầu thổi mạnh hơn, sóng biển chòm lớn hơn. Chú, thím và các em ùa lên
khỏi bờ, tắm rửa ra xe trở về. Người tài xế cho xe rời khỏi bãi đậu thì
trận mưa trút xuống, xe lăn bánh thật chậm lần ra khỏi tỉnh Vũng Tàu
dưới màn nước trắng đục mù mờ.
* * * * *
Chiếc xe đò ì ạch lăn trên mặt lộ. Đường về quê ngoại không còn thấy đôi
bờ ruộng lúa mênh mông, không còn thấy những bụi tre già, những đoàn
mục tử trên lưng trâu, những đám người lom khom cấy hay gặt lúa trên mặt
ruộng.
Cũng nhà nhà, quán quán dọc dài theo quốc lộ, chắn ngang tầm
mắt, tôi không còn phân biệt được những địa danh nhỏ ngày xưa nhiều lần
theo mẹ về thăm quê ngoại. Nơi chốn quen thuộc gần như xóa sạch, không
thể ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường đành ngồi dựa vào lưng ghế hình
dung ngôi nhà ngoại và vuông vườn cây ăn trái, ngỏ ra vào có hàng sua
đủa cao lêu nghêu, có những cây me đậu phọng bên dãy rào bông bụp, hình
ảnh mấy dì và cậu út tất cả mơ hồ lung linh trong trí và bức thư sáu
tháng trước bỗng hiện lên đậm nét những dòng chữ báo tin ngoại mất. Tôi
mơ màng như vậy cho tới khi tiếng ồn ào và giựt mình vì một cái giặc
mạnh khi xe de vào bến đậu. Theo hành khách xuống xe, chân bước khỏi xe
vài bước ngơ ngác kiếm tìm giữa bến xe xa lạ chiếc xe lam - theo như lời
chỉ dẫn của chú - có thể đưa mình về làng quệ Không thấy bản treo,
không thấy chữ ghi địa danh nơi xe đến. Vài chiếc góc nầy, vài chiếc góc
kia, không thể biết được xe nào mình có thể đi. Bối rối ngó quanh quất
chưa biết hỏi ai, bỗng một bà già đến gần nói:
- Cháu muốn kiếm xe về Cầu Vàm hả?
Ngạc
nhiên nhưng vẫn gật đầu, tự nghĩ bà già nầy chắc có sự thần giao cách
cảm.Thộn mặt suy nghĩ chưa tìm được nguyên do sự đoán đúng của bà già,
lại nghe bà nói tiếp:
- Bà cũng đi về gần đó, theo bà đến bến xe đậu
ngoài kia. Bước đi sau lưng bà ra khỏi bến, đi hết con đường rồi quẹo
sang phải một chiếc xe lam, máy đang nổ nhiều hành khách ngồi đầy trên
băng. Lặng lẽ leo ngồi kế bên bà già như hai bà cháu. Người tài xế cho
xe chạy. Trong lòng có chút áy náy khi chợt thấy những người ngồi trên
dãy băng đối diện, dòm mình chăm bẳm, quan sát từ chân lên tới đầu,
tưởng như một cái gì khác lạ trước mắt.
Giả đò không biết, ngóng ra
khoảng trời trên cao. Chiếc xe rời khỏi tỉnh một thôi đường thì bắt đầu
trồi lên hụp xuống giữa hai hàng dương liễu bị róc hết cành lèo tèo trên
cao vài ba nhánh nhỏ héo úa vàng nghếnh chỉa ngọn lên trời. Hết đoạn
đường nhựa bể nát nghèo nàn, xe quẹo sang con lộ nhiều bùn đen lẫn với
bụi đỏ. Nghĩ tới cơn mưa bất ngờ xe sẽ không di chuyển được. Ngó lên
khung trời xanh không gợn mây, lòng bớt lo ngại với khoảng đường dài
mười hai cây số. Con đường dài đủ ghi nhận cảnh vật xung quanh, in đậm
vào võng mô từng cụm cây, vườn chuối bên cạnh hàng dừa nước ven sông,
từng con rạch nhỏ uốn cong chạy qua cánh đồng luồn vào thôn xóm.
Bà
già ngồi cạnh bên như một nắm chắc, một cái phao để yên lòng hướng theo
ngõ về ngập tràn bóng nắng. Ngồi sát bên bà như đứa cháu nhỏ, cánh tay
bà xuôi theo chân tạo thế ngồi thong thả. Cái khăn xéo trên đầu, hai
chéo buộc vòng xuống cổ, hình ảnh đó gợi nhớ trong tôi da diết người bà
đã khuất, tự nhiên muốn kêu lên hai tiếng "ngoại ơi! " thật lớn. Những
ngày nghỉ học về thăm, không có mấy dì và cậu út ở nhà, bà ra đón chúng
tôi tận ngoài đầu bờ cái - gió mưa làm mặt đất lầy lội - bà cõng tôi
trên lưng đi nghiêng ngả trên những đám bùn trơn trợt. Những lần mẹ về,
không có tôi theo, lúc mẹ trở lên bà gởi cho đứa cháu ngoại mọi thứ trái
cây vườn nhà. Hai mươi năm vật vờ nơi đất khách, không hề thấy mặt
ngoại, không thể hình dung được hình dáng bà lúc tuổi đã về chiều, chỉ
còn nhớ mang máng mặt bà lúc còn trẻ, trí óc non nớt chưa nhận biết được
những đường nét nào quen thuộc đặc biệt trên khuôn mặt. Bây giờ thân
thể người đã rã tan dưới huyệt lạnh, đâu còn thấy lại người bà thân yêu
thưở trước. Thở dài, quay sang bà già bên cạnh, bắt gặp bà đang dòm tôi
chăm chú, trong đôi mắt có một chút gì đó thật gần gũi thật thiết thạ
Giọng nói bà thoảng bên tai:
- Cháu là người ở xa về phải không?
Tôi
hơi luống cuống, nửa muốn gật đầu, nửa muốn chối từ. Trước khi ra đi đã
mượn áo quần của Hằng mặc cải trang vậy mà cũng có người nhìn ra được.
Cuối cùng không thể chối tôi gật đầu, lại nghe bà nói tiếp:
- Bây giờ cũng còn sớm, đừng ở lại, cố gắng trở về thành phố trước khi trời tối.
Vâng dạ, nhưng quả thật trong lòng đã nghĩ, không thể trở về được trong ngày, dẫu sao tôi phải ở lại với dì với cậu một hai hôm.
Nắng
nửa chiều e ấp chiếu xuống mặt ruộng loang loáng nước, dàn trải trên
những ngọn cau sau dãy nhà ai và phủ xuống lũy tre già ven xóm. Ngoài
cánh đồng xa mấy đứa mục đồng trên lưng trâu như những chấm đen lớn đang
di động nhẹ nhàng theo bờ ruộng. Ở đây, tôi mới thấy được cánh đồng
xanh thẳm và những hoạt cảnh còn sót lại thưở xưa. Người tài xế cho xe
ngừng, hành khách và bà già bước xuống xe. Trước khi rời chỗ bà vỗ nhẹ
vào cánh tay tôi như thầm nhắc nhở nhớ lời dặn dò. Cúi đầu chào bà, dòm
theo dáng đi nhanh nhẹ, xấn vào lùm cây gần đó mất hút. Xe chạy.
Trong
xe còn lại một vài người, băng ghế trống rỗng, tôi quay mặt ra phía
trước, khoản cách không xa, cây Giáng hương cao nghệu sừng sửng già nua,
làm điểm nhớ đầu bờ cái mà ngày xưa tôi thường ngồi dưới đó chờ người
nhà ngoại ra đón.
Xuống xe, men theo lối mòn trên bờ đất với hai
hàng cỏ mọc xanh um. Tôi bỡ ngỡ đứng khựng lại, không hiểu nên rẽ lối
nào ráng nhớ, nhưng tâm trí mù mờ không định được phương hướng. Dòm
quanh quất không có một vật gì, một dấu vết nào để dễ dàng tìm được nơi
chốn mà tôi muốn tới. Tiếng gà gáy nơi nào thật xa vẳng lại, ầu ơ...
điệu hát đưa em từ căn nhà ai đưa ra não nuột, Phân vân trước mấy ngả
đường, đành bước vào căn nhà phía ven cây gần nhứt hỏi thăm. Cửa ngõ
khép hờ, trong sân dưới tàn cây một người đàn ông đang ngồi chẻ lạt. Lại
một lần nữa bối rối, đầu óc mù mịt không biết tên ngoại, chỉ còn nhớ
tên dì ba em kế của mẹ mà thôi. Ông nhìn tôi từ đầu đến chân, ý chừng
như quan sát người đối diện, mới chịu trả lời:
- Chị ba Sen hả? Cô là cháu chị ba ? Để tôi biểu con nhỏ tôi dắt cô đi.
Ông
kêu vọng vào trong nhà, có tiếng dạ lớn, một cô bé khoảng mười tuổi
bước ra sân ngó tôi không nháy mắt. Giọng ông ngọt ngào nói với con gái:
- Tầm à, dắt cô nầy đến nhà bà ba Sen, nha con".
Đứa con gái không nói không rằng, đi ra ngõ, tôi vội vàng cám ơn và cuối đầu chào ông ta và đi mau theo đứa nhỏ.
Đi
loanh quanh mấy con bờ cặp theo xóm, tôi đến trước ngôi nhà lá một căn
một chái lụp xụp xác xơ, đàng sau là con rạch nhỏ với những bụi dừa
nước, tàu lá đan nhau. Bước chân của hai người vừa trờ tới, từ trong nhà
vọng ra sân tiếng chó sủa gâu gâu. Đến cửa dòm vào không thấy ai chỉ có
vài món đồ vật cũ kỹ, một cái bàn dài với sáu cái ghế loại cây thường
kê giữa nhà, phía sau sát vách buồng là bàn thờ, lư hương và hai chân
đèn bằng cây đã ngả màu đen, đáng kể hơn hết bộ ván gỏ bóng láng bên tay
phải kê sát vách. Lòng tôi chợt nhói đau và đứng lại ngay giữa cửa. Con
bé gái dẫn đường, chạy tuôn ra phía chái kêu lớn:
- Bà ba ơi ! có ai kiếm ở ngoải á.
Tiếng
chân khua động, một người đàn bà ốm yếu bước ra, mặt hốc hác nhưng
những đường nét giống mẹ tôi còn phản phất trên đó. Tôi nhận ra ngay
người dì sau những năm xa cách. Ngược lại, dì ngó tôi với ánh mắt sững
sờ không biết tôi là ai. Nén cơn xúc động đang dâng tràn nghẹn cổ, tôi
nói lớn thảng thốt:
- Dì ba, cháu là Thảo, dì quên cháu rồi sao?".
Mắt dì mở lớn sáng rực, nói trong khi đôi mắc đầy nước:
- Trời ơi! Con chị hai... Cháu Thảo, lớn quá, dì không nhận ra cháu?
Dì chạy tới nắm tay kéo tôi tới ngồi trên bộ ván gỏ mếu máo hỏi:
-
Cháu về lâu chưa? ghé trên nhà mấy chú rồi hả? Về đây ở chơi với dì lâu
lâu nghe cháu. Còn dì tư với mấy đứa con đi làm đồng chưa về. Một lát
dì sai mấy đứa nhỏ chạy cho cậu Út con haỵ Tội nghiệp lúc bà ngoại mất
cậu út lo lắng hết mọi bề. Dì già yếu chỉ nhờ mấy đứa nhỏ con dì tư, vợ
chồng tụi nó ở đây với dì".
Đứa con gái nhỏ đưa đường còn đứng xớ rớ chỗ đầu bộ ván. Dì quay sang phía nó nói:
- Tằm à, con chạy ra ruộng gần gò trăm bầu kêu dùm dì tư và dượng tư về gấp dùm bà.
Nó "dạ" một tiếng lớn và chạy ra ngoài.
Độ
nửa tiếng đồng hồ, dì dượng tư và hai đứa con trai về đến nhà. Sau khi
chào hỏi, mừng rỡ cả nhà nhôn nhao, người hỏi điều nầy, người hỏi điều
kia tôi trả lời không dứt. Sau những phút hàn huyên dì ba hối dì tư đi
lo cơm nước. Dượng tư dành phần đi trình giấy tờ của tôi ở đồn Công An
xã.
Cả nhà ăn cơm trên cái bàn dài sáu ghế, vừa ăn vừa nhắc lại
chuyện ngày xưa cho tới khi hoàng hôn xuống. Bóng tối buông mau phủ trùm
khu nhà nhỏ rợp bóng lá dừa lúc tôi dòm ra phía bên ngoài. Vệt sáng
cuối cùng mờ mờ hấp hối vươn hắt hiu phía chân trời. Trong hơi gió mát
mẽ của buổi tối thôn quê, tôi nghe thoang thoảng mùi lúa đồng nồng dịu.
Từ xa văng vẳng trong màn đêm điệu nhạc muôn đời của đám côn trùng tấu
lên từng đoản khúc. Ngọn đèn dầu leo lét trên bàn, gợi ở lòng nỗi buâng
khuâng nhớ về một thành phố ngút lửa bây giờ đã xa xôi trong không gian
và đời sống. Trời bên ngoài tối hẳn, mấy em đã lên giường chỉ còn lại
dượng tư và hai người dì cùng tôi ngồi trên bộ ván. Bỗng cậu Út từ bên
ngoài chạy vào và nói:
- Con Thảo đâu rồi, theo cậu về bên nhà ngoại, bên đây không có chỗ ngũ.
Tôi
ngó người cậu bây giờ lạ hoắc, nếu không ngồi trong nhà nầy, gặp cậu
ngoài đường không thể nào tôi nhận ra. Cậu dòm tôi, khóc ròng:
- Nó giống chị hai quá.
Và hướng về dì ba, dượng tư và dì tư cậu nói:
- Em đưa con Thảo về bên nhà, ngày mai chị ba, anh tư, chị tư mấy đứa nhỏ đi qua bển rộng rãi hơn. Gia đình đoàn tụ một bữa.
Day qua phía tôi cậu nói tiếp:
-
Đi Thảo, theo cậu về nhà ngoại. Đáng lẽ cậu gặp cháu từ hồi sớm, nhưng
phải đi về bên ngoại sắp nhỏ. Nghe mấy đứa nói lại, lật đật chạy qua
rước cháu.
Dì ba đưa "sắc" quần áo và hối tôi đi với cậu út. Tôi cúi chào hai dì và dượng tư, theo cậu út ra ngoài.
Đường
bờ nhỏ khó đi, cố gắng lắm mới theo nổi cậu Út. Nền trời trong đen lấp
lánh từng chùm sao dầy đặt. Hai cậu cháu đi khoảng độ mười lăm hai mươi
phút thì đến nhà. Đứng trước căn nhà của thưở xưa, hiển hiện giữa màn
đêm rõ ràng quen thuộc. Thời gian làm cũ kỹ và xập xệ hơn nhưng dễ dàng
nhận ra ở vài nét đặc thù của nó. Vào nhà, sau khi đốt nhang trên bàn
thờ ngoại, tôi đi tắm và vào căn phòng mợ út đã sửa soạn sẳn, căn phòng
trước kia mẹ tôi thường ngủ mỗi khi về. Một ngày mệt mỏi, đặt lưng xuống
mặt giường, mắt hướng qua khung cửa sổ nhỏ trước mặt, bên ngoài tối đen
không thể thấy gì chỉ nghe tiếng gió rì rào pha vào tiếng chó sủa và
những tiếng động ngoài bờ rào. Cũng như trên nhà chú, tôi nghe tiếng
muỗi vo ve chung quanh trong bóng tối. Cảnh vắng lặng của đêm ngoài
những tiếng động thông thường dường như có tiếng đập cánh của dơi đâu
đó. Mợ út vào buông mùng tấn bốn góc cho tôi, chúc tôi ngủ ngon rồi đi
ra ngoài. Nằm yên trên giường ngỡ như mình đã lùi lại lúc sáu bảy tuổi,
cũng trên chiếc giường nầy ngủ với mẹ, thấy như mẹ đang nằm bên cạnh, và
cuộc sống thưở nhỏ chập chờn trong tôi hầu như ru tôi lịm lần trong
giấc ngủ có nhiều mộng mị.
Sau giấc ngủ dài, tôi giật mình tỉnh
dậy. Trời bên ngoài chưa sáng hẳn, tung mền ngồi lên. Ngoài hàng ba,
tiếng người nói, tiếng bước chân nện mạnh trên mặt đất xôn xao. Bước
xuống khỏi giường, đi về hướng có tiếng nói, tôi dừng lại bên trong cửa
lắng nghe. Dường như tiếng dượng tư nói:
- Đâu lối mười hai một giờ
gì đó, đám công an kêu cửa xét nhà. Không biết họ kiếm tìm gì, không hỏi
một câu, đi khắp nhà, lục lọi đồ đạt. Ý chừng như kiếm con Thảo.
Lại nghe tiếng nói của dì ba:
- Nhà nghèo với lại đâu có chứa chấp cái gì? Tao cứ để yên cho họ xét.
Mọi
người sửa soạn kéo vào nhà, tôi rời chỗ đi thẳng ra sau vườn. Đưa mắt
ngắm một vòng, cây cối già cỗi, những bụi bông mẫu đơn, bông trang dường
như mới được trồng lại, tươi tắn và đơm đầy hoa. Cuối gốc vườn, cây
bưởi bây giờ cao hơn, tàn lớn hơn vẫn trổ đầy bông trắng. Mặt trời thập
thò sau dãy mây hồng tỏa từng chùm tia sáng rực rỡ phía bên kia hàng cây
xanh. Ý nghĩ sẽ ra đi trong vài giờ nữa khiến một chút xao động, một
chút gờn gợn se thắt trong lòng, biết bao giờ thấy lại những băng đá
dưới cội cây bồ đào, những bật thềm nhà thông ra vườn và nhứt là cái
võng giăng muôn đời dưới gốc hai cây cau cạnh giàn trầu nghệ. Tôi nghe
nhói đau trong lòng ngực, không được thỏa thuê hưởng dụng vòm trời quê
ngoại với đầy đủ hương thơm bát ngát của cây lá, của nụ hoa và cả mùi ẩm
ướt của hơi sương sớm. Đến, rồi lại tức tưởi ra đi. Mặt trời bây giờ đã
rạng rỡ trên những luống thược dược trắng và đám nở ngày tím rịm bên
hàng trắc bá dịp ủ rũ như buồn bã cho sự vô phần của người con gái cút
côi.
Tôi vội vàng đến bên lu nước với lấy cái gáo cán dài múc nước
rửa mặt, dòng nước mát làm thần trí tỉnh táo và ý chí trở về thành phố
sớm cho mọi người thân tránh được tai họa.
- Thảo ơi, vô nhà ăn sáng.
Tôi
quay vào nhà thấy mọi người đều ngồi quây quần quanh bàn, kế cậu út là
cái ghế trống có lẽ chừa cho tôi. Tuy ăn sáng nhưng nhiều món bày ra như
một bữa tiệc tiển hành nho nhỏ. Cậu út nói:
- Cậu mừng cháu Thảo trở
về, cậu ước ao cháu ở chơi với cậu vài tuần. Lần về nầy không biết khi
nào cháu trở lại nữa. Cháu cứ coi nơi đây như nhà của mẹ cháu. Lẽ ra cậu
phải nuôi dưỡng cháu, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cháu phải đi xa.
Cả
nhà chúc tụng tôi, sau đó thì mọi người vui vẻ ăn uống. Tôi do dự nhưng
cuối cùng cũng xin cả nhà cho tôi được trở về thành phố trưa naỵ Mọi
người đang vui vẻ bỗng im lặng không khí buồn thiu, tôi rơm rớm nước mắt
nói tiếp:
- Cháu biết ai cũng thương yêu cháu, nhưng có chuyện xảy
ra đêm qua, cả nhà đã dấu không muốn cháu mất vui những ngày về đây. Suy
nghĩ kỹ, cháu không thể ở lại thêm, phiền phức cho cậu và các dì dượng.
Cơm
nước xong, vô phòng dọn đồ đạc, lấy ra ít tiền chia cho mọi người. Tội
nghiệp dì ba bây giờ đã bắt đầu khóc thút thít, cả nhà phải khóc theo.
Tôi cũng không cầm được nước mắt trước cảnh kẻ ở người đi. Từ giã mọi
người tôi lầm lũi bước theo cậu út.
Qua mấy đường bờ đất ngoằn ngoèo
tới trước mộ ngoại. Màu nước vôi trắng toát, không một miếng lá khô
không một cây dại nào mọc lên xung quanh. Đốt ba cây nhang cậm xuống đất
và quì lạy, bỗng nhiên đôi mắt tôi mở lớn ngó thẳng vào tấm hình nhỏ
gắn dưới miếng kiến đặt trên đầu mộ, kê mặt sát vào dòm, dụi mắt hai ba
lần, người trong ảnh quá giống bà già đã gặp trên xe, đúng là bà ngoại.
Đường
xương sống buốt lạnh, há miệng nhưng kịp bậm môi ngăn tiếng la thất
thanh sắp thoát ra khỏi cổ họng, ráng trấn tỉnh nhưng hai tay tôi vẫn
run bây bẩy. Tôi lầm thầm khấn nguyện có linh thiêng ngoại phù hộ con
cháu tránh được tai nạn. Chần chờ chưa đi, muốn nói với cậu út những
điều đã gặp dọc đường.
Không biết cậu có tin hay cho là một sự lầm lẫn.
- Thảo, thôi đi cháu huốt chuyến xe lam chót, không kịp về tới thành phố.
Tôi vội vã theo sau cậu út, đi tắt trên bờ nhỏ xuyên qua mấy đám ruộng tới lộ cái.
Đứng
trên lề lộ ngó mông về phía ngôi mộ, tằm mắt ngừng chỗ có lùm cây rậm,
đúng là nơi bà già xuống xe đi vào lùm cây đó. Một sự trùng hợp hay sự
hiển linh của người chết, hiện hình giúp đỡ đứa cháu mồ côi và như ngầm
cho biết "đất nước nầy không phải là một đất nước an bình cho những
người từ phương xa trở về ".