» Cập nhật: 22-05-2013 17:24
» Lượt tải: 1085
Thể loại: Truyện ngắn
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Tác giả: Ngô Phan Lưu
Xóm Ao hiện có hai người
bệnh trầm trọng. Rất nặng. Nặng đến mức, giờ đây cái chết nhẹ ngang
bằng hơi thở. Đó là chú Khiêu chồng thím Xanh. Đó là bà Mển vợ lão
Sùng. Cả hai đã là trái banh trong chân đội banh Nhà Thương. Đội banh
ấy đã cố gắng chuyền nhau, không cho lọt vào “ gôn ” Tử Thần, nhưng đều
thất bại, để trái banh bị lủng, và cũng vì đá quá, cuối cùng xẹp hơi…
Ruộng rẫy, bò trâu đã bán sạch. Gia đình họ đang trên bờ vực thẳm… Chú
Khiêu ung thư gan thời kỳ chót! Bà Mển ung thư phổi thời kỳ chót! Chờ
chết!
Tổng quát, tình hình là như vậy, bi thảm là vậy. Đó là lý do
sáng nay, Thuỳ đưa hai túi ny lông đựng cam sành và sữa hộp cho Thuấn:
– Anh đi thăm họ nhanh lên… Chần chừ sẽ không kịp thăm!
– Họ ăn được gì mà cam với sữa. Tiền tốt hơn.
– Họ ăn bằng mắt.
Thuấn nín lặng trước câu nói của vợ. Phải! Người sắp chết không ăn gì, nhưng phải có đồ ăn để thấy!
Thuấn xách hai túi cam, sữa, vội vàng ra khỏi nhà, quyết định đến chú Khiêu trước. Anh bước nhanh, tâm trạng bồng bềnh…
Vừa
bước chân lên thềm nhà, Thuấn đằng hắng mấy cái… Thấy Thuấn, thím Xanh
lật đật bỏ cái thúng đan dở, đứng dậy thoăn thoắt ra cửa, xìa tay đỡ
cả hai túi cam và sữa, đặt lên chiếc bàn gỗ tạp xiêu vẹo nơi hiên,
miệng phát tía lia như súng liên thanh khạc đạn:
– Chú mày cứ đòi
chết, đòi chết, đòi chết… ăn được gì mà mua nhiều thế này, thế này… Cứ
đòi chết, đòi chết… không thèm sống, không muốn sống… Cứ đòi chết…
Xổ
xong tràng âm thanh khoẻ mạnh ấy, thím nhanh nhẹn chuyển hai túi quà
vào đặt trên bàn thờ tổ tiên, đoạn trở lại nơi góc phòng, đan tiếp cái
thúng dở dang, dường như Thuấn không có mặt ở đấy, bình thản đến lạnh
lùng. Thuấn chưa kịp mở miệng nói gì được. Gặp thím là anh câm luôn!
Chú
Khiêu được đặt nằm trên chiếc chõng tre sát cửa sổ không cánh, trông
thật hoang vu. Da chú màu vàng pha xanh như màu trái bưởi non. Có mấy
chiếc lá vàng bị gió quật bay vào đậu trên ngực chú. Anh kéo chiếc ghế
đẩu vuông nhỏ, ngồi cạnh giường. Vừa nhặt mấy chiếc lá trên ngực chú
quăng ra ngoài, vừa nói động viên:
– Chú lạc quan lên, coi nào! Cứ đòi chết, đòi chết… chết thật đấy! Cái chết mà bực lên nó không tha ai đâu!
Chú Khiêu nhăn nhó, miệng móm riết, nói đứt quãng:
– Sống mà đòi chết là… người ngu! Sắp chết mà đòi sống… lại càng ngu hơn! Chú không phải người ngu!
Thuấn sững sờ nhìn chăm chú chú
Khiêu. Dường như đằng sau lưng câu nói của chú là một khoảng mênh mông
cay đắng. Mà cũng dường như câu nói ấy không phải nói với anh, nó dường
như một tảng băng trôi về hướng thím Xanh đang ngồi thản nhiên đan
thúng. Khuôn mặt vàng pha xanh hốc hác, đôi mắt lõm sâu không nhìn ai
cả của chú Khiêu khiến anh nao lòng. Đôi mắt nhìn vào bên trong, thấy
sự tan tành một kiếp người một cách kiên cường tuyệt vọng. Nó ráo hoảnh
đến se sắt! Đột ngột, chú Khiêu oằn người, mặt nhăn riết, mồm méo
xệch, mắt nhắm nghiền, tay ôm bụng. Có lẽ có một cơn đau vừa dạy lên
nơi bụng, từ gan… Thuấn luống cuống… Phải! Chú Khiêu nói phải! Đau đớn
mà đòi sống, đúng là người ngu! Phải đòi chết cơ, như chú đã đòi! Có
lẽ, cạnh những chân lý năm tháng dài hạn, còn có chân lý phút giây ngắn
hạn. Mà cái chân lý phút giây ngắn hạn ấy lại có thể là chân lý vĩnh
hằng! Một màn sương hiu hắt vừa rớt phủ vào Thuấn, anh thấy chú Khiêu
vừa mờ đi… Ở đấy, trong cái màn sương hiu hắt ấy, sự háo hức, cái vui
hơn hớn, cái kiêu hãnh, những tự xưng giá trị… không dám bước vào, bởi
chúng bé mọn quá, tầm thường quá!
Biết làm sao được, Thuấn cũng lại phải an ủi, động viên chú Khiêu với một ý thức rõ, mình đang đuổi trung thực ra khỏi mình:
–
Nói thế sao được, hả chú ? Cứ xem lão Phiệt đấy, cũng trầm trọng chí
tử liên miên, mua hòm trước có đến ba lần, đều cất đấy chờ mọt ăn. Vậy
mà nay vẫn sừng sững chén thịt chó…
Chú Khiêu quay mặt lơ đãng ra
cửa sổ, nơi có tiếng hót trong veo, ríu rít của mấy chú chim sâu trong
khóm lựu xơ xác. Chú lại nói, giọng yếu ớt:
– Mua hòm trước là… người khôn! Không mua hòm trước là … kẻ dại! Chú đã dại! Chết rồi, ai mua ?
Thuấn
lại nín lặng. Cái nín lặng buộc anh nín lặng. Lại cũng ở tầng sâu câu
nói ấy, trùng trùng cay đắng oán hờn! Thì ra, tất cả những gì không
phải xương thịt trong chú Khiêu, đã tan vỡ! Ừ, phải và có thể, chân lý
mà không riêng lẻ, là không chân lý nữa rồi! Làm gì có chân lý ngắn
ngày, dài ngày, làm gì có vĩnh hằng, giây phút, có lẽ chỉ có chân lý
riêng tư mà thôi! Lại một màn sương hiu hắt đậm đặc hơn, tiếp xuống!
Câu nào anh thốt ra đều hỏng trước chú! Ngồi cạnh chú, anh thẫn thờ…
Lúc này, có chú y tá bước vào nhà. Đã tới giờ chích moọc phin giảm đau. Thuấn hỏi vu vơ, không nhìn chú ta:
– Không có ánh sáng à ?
– Tối thui! Gan trầm trọng!
Nghe thế, Thuấn quay lại, xua tay… Nhưng chú y tá đã cười:
– Chú ấy rõ rồi! Vợ con chú ấy đã nói vào tai: “ Gan ông đã nát rồi! ”.
Nghe thế, Thuấn hụt hẫng, đột ngột
chơi vơi vào một vùng mênh mông im lặng. Một vùng không tên. Một vùng
chết. Một vùng tê liệt… Như một phản xạ, Thuấn nhìn chăm chú vào chú
Khiêu. Trên khuôn mặt gần như lần đầu, không có gì xảy ra cả. Cái chết
đã là bạn thân quý của chú rồi! Và, rõ ràng chú chờ người bạn ấy. Không
những chờ, mà còn quý người bạn ấy. Một người bạn im lặng âm u, không
hình hài vậy mà rộng lớn vô cùng, chân thành thân thiết với bất kể ai,
bất kể tuổi nào!
Chú y tá đóng xong mũi moọc phin, xách túi ra về, chẳng nói gì, cũng không chào ai… Rõ ràng là chú ấy không muốn nán lại.
Cõ lẽ đã bớt đau, chú Khiêu thều thào:
– Có ai đưa tôi chai dầu!
Thuấn vội hỏi:
– Ở đâu ? Tôi lấy cho.
Nghe
thế, thím Xanh từ góc phòng, ngừng đan thúng, móc trong túi áo chai
dầu lèo xanh, quăng đến cho anh. Anh không ngờ thím lại quăng, nên chụp
lấy không kịp, chai dầu lèo rớt ngay trên bụng chú Khiêu. Quả là nó
rơi trúng ngay vùng gan đau. Mặt chú Khiêu méo mó, xám trắng vàng xanh
lẫn lộn, mắt cụp lại, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cố chịu
cơn đau, không cho bật ra một tiếng rên la đau đớn nào! Thuấn hốt hoảng
nhặt chai dầu xanh lên. Anh sững sờ. Chai dầu còn mới nguyên, vỏ giấy
chưa bóc, loại dầu xanh Con Ó, giá thị trường khoảng bốn chục ngàn
đồng. Cổ họng anh đắng nghét, khô khốc, anh nuốt nước bọt hơi đau, như
vừa bị viêm họng. Một tia sáng vừa xoẹt ngang, tia sáng xuất phát từ
chai dầu gió xanh: Có lẽ vì có anh, nên thím Khiêu mới quăng ra chai
dầu, mà có lẽ cũng vì có anh, nên chú Khiêu mới đòi thoa dầu! Trong
anh, tất cả nhà này đều rơi lả tả, vỡ tung… Làm gì có chân lý chung,
riêng, ngắn hạn, dài hạn. Chúng đã thành rác rồi!
Ngay lúc này, vang
tiếng chân nặng nhọc bước vào nhà. Đó là anh Nam, con trai chú Khiêu.
Anh đang vác một bao lúa trên vai, mồ hôi chảy như suối. Có lẽ, anh ta
đã đi vay mượn từ khá xa đem về. Trông anh rất mệt. Anh không chào
Thuấn, nhưng Thuấn lại vụt đứng dậy, hỏi một câu ngớ ngẩn đến lợm
giọng:
– Sao ? Bác sĩ bảo sao ?
Thuấn
biết câu hỏi của mình là câu hỏi thừa thãi, chức năng của nó chỉ là
biểu hiện sự luống cuống để thay lời chào vô duyên. Nếu chẳng có ai trả
lời, nó sẽ rơi vào lại chính anh, để không biết ném đi chỗ nào! Anh Nam
quăng bịch bao lúa xuống nền nhà, bụi lúa bay vất vưởng. Giọng anh khô
khốc:
– Bảo sao à ? Như chiếc xe trành! Chế chút xăng vào, lại rống lên! Chờ ra bãi thải!
Câu
trả lời anh Nam tuôn ra, mang một sức nặng lạ thường, đã ấn nhẹp Thuấn
phịch lại xuống ghế đau điếng! Đó là sức nặng của một tan rã giá trị,
tan rã triệt để! Anh thần người! Sao lại thế nhỉ ? Ai bắt anh ta nói
câu ấy ? Ai bắt anh ta nói ? Thuấn méo mặt, như có ai đó vừa thọc vào
tim…
Vẫn không nhìn ai, anh Nam cởi áo lau mồ hôi mặt, đi thẳng ra hè
sau. Thuấn ngơ ngác, nhìn quanh quất căn nhà trống trơn của chú Khiêu.
Trên tường nứt nẻ kia, móc một tấm lịch hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ cứt
ruồi đầy mặt, áo xống loang lổ bụi thời gian, “ lốc ” lịch vẫn còn
nguyên không ai xé! Bên này, xót lại bàn thờ tổ tiên hoang lạnh, nơi có
hai túi quà cam sữa của anh chễm chệ như khách quý! Đột ngột, trong
một tích tắc như có một sức mạnh vô hình lôi anh, anh nhoài người về
phía ấy để làm một tên tiểu nhân hèn mạt, một gã vô liêm sỉ, một thằng
côn đồ táng tận lương tâm, để giật lại hai túi quà đem đi chỗ khác. Đem
đi chỗ khác cho dù quăng đi cũng được, bởi thế nào, thím Xanh và anh
Nam cũng sẽ ăn! Nhưng không, một tích tắc qua rồi, anh đã ngồi thẳng
lại. Anh đã không làm được! Cho dù có rứt xé, anh vẫn là anh, một người
tên Thuấn! Cái tên là ngôi nhà của anh, cũng là ngôi mộ của anh! Rồi
cũng thật đột ngột, anh quay nhìn chú Khiêu để xem chú còn hay mất. Chú
Khiêu vẫn còn… Chú đang cắn chặt hai hàm răng chú đã lún mất vào nướu,
đôi mắt nẹt lửa. Trông chú như vừa run, vừa cười, vừa khóc. Tất cả
những cái ấy chú đã nuốt vào bụng, và ngay nơi cái vùng gan đau nơi
bụng! Chú cuộn người như cái lò xo trong sự yên lặng cực kỳ! Từ người
chú, không phát ra bất kỳ một âm thanh nào, cho dù âm thanh hơi thở!
Anh đang xem một đoạn phim câm cực kỳ câm lặng! Cái nghèo bọc lấy sự
hoạn nạn đã bốc khói! Tại sao bốc khói ? Tại vì những thứ đẹp đẽ đã
cháy rồi! Và, cũng thật đột ngột, anh cũng y như chú Khiêu, răng cắn
chặt, quai hàm bạnh ra, môi mím lại, anh vụt đứng dậy, quăng chai dầu
gió xanh lại cho thím Xanh, bước nhanh ra khỏi nhà, mang theo một lòng
thương kỳ lạ đến ác độc, là thương… tại sao chú Khiêu không chết đi, để
ra được khỏi nhà!
Anh loay hoay với lòng thương kỳ lạ ấy, buổi sáng đã biến mất, quên cả thăm bà Mển như chương trình.
Giải nhất Truyện ngắn 2006-2007 của báo Văn Nghệ